11/03/2020

Thần khí, Dầu-xức, Ðấng Pa-rác-lê (1Ga)



  
Tác giả: Giuse Lê Minh Thông, O.P.
Email: josleminhthong@gmail.com
Cập nhật, ngày 11 tháng 03 năm 2020.


Nội dung

Dẫn nhập
I. Thần khí (pneuma)
    1. Thẩm định các thần khí (1Ga 4,1-6)    
    2. Quà tặng Thần Khí (3,24; 4,13)
    3. Lời chứng của Thần Khí (5,6-9)
II. Dầu-xức” (khrisma)   
    1. Dầu-xứcở 1Ga 2,19-22
    2. Dầu-xứcở 1Ga 2,25-27
    3. Ý nghĩa cách dùng từ Dầu-xức
III. Đấng Pa-rác-lê (paraklêtos)
    1. Dịch và chuyển âm từ “paraklêtos
    2. Ðấng Pa-rác-lê ở Ga 14,15-16 và 1Ga 2,1
    3. “Đấng Pa-rác-lê – Giê-su Ki-tô” trong bối cảnh 1Ga
Kết luận




Dẫn nhập

Trước khi phân tích đề tài “thần khí” (pneuma), Dầu-xức (khrisma), Ðấng Pa-rác-lê (paraklêtos) trong thư thứ nhất Gio-an (1Ga), cần biết sơ lược cấu trúc và bối cảnh lá thư này. Về cấu trúc, thư 1Ga mở đầu bằng lời tựa (1,1-4), giải thích tại sao tác giả viết thư này. Phần 1,5–5,13 là nội dung lá thư, mở đầu bằng câu: “Và đây là lời loan báo mà chúng tôi nghe từ nơi Người (Đức Giê-su Ki-tô), chúng tôi loan báo lại cho anh em rằng:...” (1,5a) và kết thúc ở 5,13: “Những điều này tôi đã viết cho anh em để anh em biết rằng anh em có sự sống đời đời, anh em là những người tin vào danh Con Thiên Chúa.” Phần cuối (5,14-21) là lời kết bức thư, trong đó tác giả bàn đến các đề tài cầu xin, cầu nguyện cho người anh em, tội và niềm tin. Về bối cảnh, cộng đoàn đang ở trong hoàn cảnh khủng hoảng vì có ly khai từ giữa cộng đoàn. Tác giả thư 1Ga gọi nhóm ly khai là “phản Ki-tô” (2,18.22), “con cái của quỷ”, (3,10) “ngôn sứ giả” (4,1). Tác giả viết thư kêu gọi sự hiệp thông và trình bày đạo lý để cộng đoàn giữ vững niềm tin chính thống. Xem cấu trúc và bối cảnh thư 1Ga trong bài viết: “Tổng quát về Ba thư Gio-an.”

Trong thư 1Ga, có ba từ liên quan đến đề tài thần khí: (1) Danh từ “pneuma” (thần khí, spirit) xuất hiện 12 lần trong 1Ga (3,24; 4,1a.1b.2a.2b.3.6a.6b.13; 5,6a.6b.8). 1 lần đại từ “touto” (4,3b) chỉ thần khí. 12 lần trên tập trung vào hai đoạn văn: 3,24–4,13 và 5,6-8. Từ “pneuma” không xuất hiện trong 2Ga và 3Ga. (2) Danh từ “khrisma” (dầu-xức, onction) xuất hiện 3 lần trong 1Ga (2,20.27a.27b). Vai trò của Dầu-xức trong 1Ga giống vai trò của “Đấng Pa-rác-lê – Thần Khí sự thật” trong Tin Mừng Gio-an. (3) Danh từ “paraklêtos” (pa-rác-lê, paraclet) chỉ xuất hiện 1 lần trong thư 1Ga ở 2,1 để nói về vai trò của Đức Giê-su. Vai trò này gợi đến “Đấng Pa-rác-lê – Đức Giê-su” và “Đấng Pa-rác-lê – Thần Khí sự thật” trong Tin Mừng Gio-an. Bài viết phân tích ba từ trên: (I) Thần khí (pneuma); (II) “Dầu-xức” (khrisma); (III) Đấng Pa-rác-lê (paraklêtos).

I. Thần khí (pneuma)

Đề tài “pneuma” (thần khí) trong 1Ga được trình bày qua ba mục: (1) thẩm định các thần khí (4,1-6); (2) quà tặng Thần Khí (3,24; 4,13); (3) lời chứng của Thần Khí (5,6-9). Xem “thần khí sự thật trong 1Ga”, ĐẤNG PA-RÁC-LÊ – Thần Khí sự thật – trong Tin Mừng thứ tư, tr. 100-112.

    1. Thẩm định các thần khí (1Ga 4,1-6)    

Trong thư 1Ga, nhiều lúc khó phân biệt giữa Thần Khí của Thiên Chúa (viết hoa) và thần khí con người (viết thường), chúng tôi sẽ viết hoa hay viết thường từ này tuỳ theo bối cảnh đoạn văn. Phần này phân tích ba điểm: (1) bản văn và cấu trúc 1Ga 4,1-6; (2) hai dị bản “không tuyên xưng” và “phân chia” (4,3a); (3) phân biệt các thần khí (4,1.6).

(1) Tác giả thư 1Ga viết ở 4,1-6: “1 Anh em thân mến, anh em đừng tin vào mọi thần khí nhưng anh em hãy thẩm định các thần khí xem thần khí nào bởi Thiên Chúa, vì nhiều ngôn sứ giả đã đến trong thế gian. 2 Trong điều này, anh em biết thần khí của Thiên Chúa: Mọi thần khí tuyên xưng Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã đến trong thân xác là bởi Thiên Chúa. 3 Mọi thần khí nào phân chia Đức Giê-su thì không bởi Thiên Chúa, đó là thần khí của tên phản Ki-tô mà anh em đã nghe là nó đang tới và hiện nay nó ở trong thế gian rồi. 4 Còn anh em, anh em thuộc về Thiên Chúa. Hỡi các con bé nhỏ, anh em đã thắng được chúng, vì Đấng ở trong anh em lớn hơn kẻ ở trong thế gian. 5 Chúng thuộc về thế gian, vì điều này, chúng nói theo thế gian và thế gian nghe chúng. 6 Còn chúng ta, chúng ta thuộc về Thiên Chúa. Ai biết Thiên Chúa thì nghe chúng ta. Ai không thuộc về Thiên Chúa thì không nghe chúng ta. Từ điều này, chúng ta biết thần khí sự thật và thần khí sai lầm.”

Đoạn văn 4,1-6 là một đơn vị văn chương, mở đầu bằng lời xưng hô: “Anh em thân mến” (4,1a) và kết thúc bằng kết luận: “Từ điều này, chúng ta biết…” (4,6d). Câu tiếp theo, 4,7 bắt đầu đề tài mới: yêu mến lẫn nhau. Từ “thần khí” xuất hiện lần đầu tiên trong thư 1Ga ở 3,24: “Ai tuân giữ các điều răn của Người [Thiên Chúa] thì ở lại trong Người và Người trong kẻ ấy. Trong điều này, chúng ta biết là Người ở lại trong chúng ta, đó là nhờ Thần Khí mà Người đã ban cho chúng ta.” Đây là câu cuối ch. 3 (3,24), vừa kết thúc những gì đã nói trước đó, vừa dẫn vào đoạn văn tiếp theo (4,1-6).

Từ “thần khí” ở số nhiều trong cụm từ “thẩm định các thần khí” ở 4,1b: “Anh em đừng tin vào mọi thần khí nhưng anh em hãy thẩm định các thần khí xem thần khí nào bởi Thiên Chúa”. Việc “thẩm định các thần khí” là cần thiết “vì nhiều ngôn sứ giả đã đến trong thế gian” (4,1c). Có thể nhóm ngôn sứ giả cũng cho rằng họ có thần khí của Thiên Chúa. Họ dựa vào đó để lôi kéo các tín hữu theo họ. Quan sát cấu trúc 4,2-3 giúp hiểu đề tài “các thần khí.” Tiểu đoạn 1Ga 4,2-3 có cấu trúc tổng hợp: đồng tâm vì A // A’ và song song B, C // B’, C’ như sau:


Hai yếu tố song song A // A’ định nghĩa “thần khí bởi Thiên Chúa” (A. 4,2a) và “thần khí của tên phản Ki-tô” (A’. 4,3c). Hai yếu tố B và B’ song song với nhau: “Mọi thần khí tuyên xưng Đức Giê-su Ki-tô” (B. 4,2b) và “mọi thần khí nào phân chia Đức Giê-su” (B’. 4,3a). Từ “thần khí” trong hai câu trên nói về thần khí hay thần trí của con người. Thần khí của hai nhóm người được tác giả định nghĩa: “chúng thuộc về thế gian” (4,5a); “còn chúng ta, chúng ta thuộc về Thiên Chúa” (4,6a).

(2) Câu 4,3a có hai dị bản: “không tuyên xưng” (mê homologei) và “phân chia” (luei). Câu này đưa ra tiêu chuẩn Ki-tô học để thẩm định thần khí: “Tuyên xưng Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã đến trong thân xác” (4,2b) hay “phân chia Đức Giê-su” (4,3a). Về hình thức, dị bản “mê homologei” (không tuyên xưng) ở 4,3a xem ra đối xứng với 4,2b: “Mọi thần khí tuyên xưng Đức Giê-su Ki-tô.” Tuy nhiên, danh xưng “Ki-tô” và cụm từ “Đấng đã đến trong thân xác” không xuất hiện ở 4,3. Vì thế song song giữa “tuyên xưng” (4,2b) và “không tuyên xưng” (4,3a) không hợp lý. Ngược lại, dị bản “luei” (phân chia) hợp lý hơn, nhằm trình bày việc phân chia giữa “Đức Giê-su” và tước hiệu “Ki-tô”, nghĩa là tách rời nhân tính và thiên tính của Người. Vấn đề không phải là “tuyên xưng” hay “không tuyên xưng” mà là tuyên xưng khác nhau. Xem trình bày hai dị bản trên và lý do lựa chọn dị bản “luei” (phân chia) trong mục “Thiên tính và nhân tính của Đức Giê-su” ở bài viết: Tổng quát về Ba thư Gio-an.”

(3) Sự phân biệt các thần khí được nói đến đầu đoạn văn 4,1-6 (4,1) và trong câu kết (4,6b). Qua đoạn văn 1Ga 4,1-6, tác giả cho biết con người được thúc đẩy bởi thần khí Thiên Chúa hay thần khí của phản Ki-tô. Tác giả mời gọi cộng đoàn “hãy thẩm định các thần khí xem thần khí nào bởi Thiên Chúa” (4,1b) lý do là “vì nhiều ngôn sứ giả đã đến trong thế gian” (4,1c). Sau khi nói về cách phân biệt các thần khí (4,2-5), tác giả kết luận ở 4,6b: “Từ điều này, chúng ta biết thần khí sự thật và thần khí sai lầm.”

Đối lập giữa hai loại thần khí đã xuất hiện trong các tài liệu Qumrân và các “bản văn Do Thái giữa hai Giao Ước” (les écrits inter-testamentaires). Tuy nhiên đối lập trong các tài liệu này khác với thư 1Ga. Thật vậy, đối lập giữa các thần khí trong các tài liệu trên nghiêng về luân lý, còn trong thư 1Ga nhắm đến thần học và Ki-tô học. Vì lập trường Ki-tô học sai lạc, nên nhóm phản Ki-tô ở trong sai lầm. Thần khí mà họ có là “thần khí sai lầm” (4,6e). Từ sai lầm về đạo lý, dẫn đến những hậu quả luân lý liên quan đến điều răn yêu thương (2,9) và quan niệm lệch lạc về tội lỗi (1,8). Tuyên xưng “Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã đến trong thân xác” (4,2b) là dấu chỉ có thần khí bởi Thiên Chúa. Nhờ đó con người có khả năng đón nhận quà tặng Thần Khí.

    2. Quà tặng Thần Khí (3,24; 4,13)

Quà tặng Thần Khí được nói đến ở 3,24 và 4,12-13. Hai tiểu đoạn này song song với nhau:


Trước hết, 1Ga 3,24a.b và 4,12b.c song song về hai yếu tố: (1) “các điều răn của Người (Thiên Chúa)” (3,24a), điều răn ở số nhiều, song song với “chúng ta yêu mến nhau” (4,12b) gợi đến điều răn số ít là điều răn yêu thương; (2) “ở lại trong Người và Người trong kẻ ấy” (3,24b) song song với “Thiên Chúa ở lại trong chúng ta” (4,12c). Kế đến, các yếu tố song song rõ nét trong bảng trên: 3,24c // 4,13a và 3,24d // 4,13b. Cuối cùng hai lời nói về Thần Khí (1Ga 3,24e // 4,13c) song song với nhau: “Nhờ Thần Khí mà Người đã ban cho chúng ta” (3,24e) và “Từ Thần Khí của Người (Thiên Chúa), Người đã ban cho chúng ta” (4,13c).

Quà tặng Thần Khí diễn tả bằng động từ “didômi” (cho, ban, tặng). Ở 3,24e, động từ “didômi” chia ở thì aoriste “edôken”, diễn tả một hành động trong quá khứ. Trong khi ở 4,13c, động từ “didômi” chia ở thì hoàn thành “dedôken”, diễn tả sự kéo dài và thường xuyên của quà tặng Thần Khí. Động từ “ở lại” (menô) ở 4,12-13 xác nhận cách hiểu này. Ở giữa hai câu nói về quà tặng Thần Khí (3,24e và 4,13c) là đoạn văn 4,1-6 (phân biệt các thần khí). Mạch văn cho thấy đời sống nội tâm (niềm tin, lòng yêu mến Thiên Chúa và nhận biết Thiên Chúa) không thể tách khỏi những biểu hiện bên ngoài (tuyên xưng Đức Giê-su là Đấng đến trong thân xác, yêu thương nhau). Quà tặng Thần Khí cho phép nối kết và thống nhất hai yếu tố “bên trong” và “bên ngoài” trong đời sống người tin.

    3. Lời chứng của Thần Khí (5,6-9)

Đoạn văn 5,6-9 nói về các đề tài: Đức Giê-su là Đấng đã đến nhờ nước và máu (5,6a); lời chứng của Thần Khí (5,6b) và lời chứng của Thiên Chúa (5,8-9). Tác giả viết ở 1Ga 5,6-9: “6 Chính Đức Giê-su Ki-tô là Đấng đã đến nhờ nước và máu, không chỉ trong nước, nhưng trong nước và trong máu; và Thần Khí là Chứng Nhân, vì Thần Khí là sự thật. 7 Có ba chứng nhân: 8 Thần Khí, nước và máu, cả ba làm chứng một điều. 9 Nếu chúng ta nhận lời chứng của con người, lời chứng của Thiên Chúa còn lớn hơn; vì đây là lời chứng của Thiên Chúa, Người đã làm chứng về Con của Người.”

Đoạn văn 5,6-9 nằm giữa hai câu 5,5 và 5,10a, nói về người tin. Tác giả viết ở 5,5: “Ai là người thắng thế gian, nếu không là người tin rằng: Đức Giê-su là Con Thiên Chúa?” Ở 5,10a, tác giả nói tiếp: “Ai tin vào Con Thiên Chúa thì có lời chứng ấy nơi mình.” Như thế, qua các đề tài “nước”, “máu” (5,6a.8), “lời chứng của Thần Khí” (5,6c) và “lời chứng của Thiên Chúa” (5,9b), tác giả nối kết các tước hiệu: “Đức Giê-su Ki-tô” (5,6a) và “Con Thiên Chúa” (5,5b.10a). Để tìm hiểu lời chứng của Thần Khí, phần sau trình bày ba điểm: (1) “Thần Khí là Chứng Nhân” (5,6c); (2) “Thần Khí là sự thật” (5,6d); và (3) ba chứng nhân: “Thần Khí, nước và máu” (5,7-8).

(1) Thần Khí là Chứng Nhân (1Ga 5,6c). Thần Khí ở 1Ga 5,6c làm chứng bởi vì, theo Tin Mừng Gio-an, Thần khí đã hiện diện lúc khởi đầu và lúc kết thúc sứ vụ Đức Giê-su. Thần Khí ở lại trên Đức Giê-su ở đầu Tin Mừng (Ga 1,33) là Thần Khí mà Đức Giê-su ban cho các môn đệ vào cuối sứ vụ. Đức Giê-su Phục Sinh thổi hơi vào các môn đệ và nói: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20,22). Trước nguy cơ sai lạc đến từ nhóm ngôn sứ giả (1Ga 4,1), Thần Khí tiếp tục làm chứng trong cộng đoàn. Vì thế, tác giả thư 1Ga dựa vào lời chứng của Thần Khí liên quan đến điểm Ki-tô học mấu chốt: Chính Đức Giê-su Ki-tô là Đấng đã đến nhờ nước và máu, không chỉ trong nước, nhưng trong nước và trong máu” (1Ga 5,6). Câu này vừa gợi về mầu nhiệm Nhập Thể (đến nhờ nước và máu) vừa gợi về biến cố thập giá: máu và nước chảy ra từ cạnh sườn Đức Giê-su (Ga 19,34). Nên không thể tách rời nhân tính và thiên tính của Đức Giê-su.

(2) Thần Khí là sự thật (5,6d). Vai trò chứng nhân của Thần Khí được giải thích ở 5,6d: “Vì Thần Khí là sự thật”. Kết hợp giữa “Thần Khí” và “sự thật” trong danh xưng “Thần Khí sự thật” đã xuất hiện trong Tin Mừng Gio-an. Đấng Pa-rác-lê đồng hoá với “Thần Khí sự thật” (Ga 14,17; 15,26; 16,13) và “Thánh Thần” (Ga 14,26). Ở 1Ga 5,6d, “Thần Khí” nối kết với “sự thật” bằng động từ “eimi” (là) có thể xem là một định nghĩa. Tuy nhiên, những định nghĩa liên quan đến Thiên Chúa, thường hiểu theo nghĩa chức năng (sens fonctionnel). Chẳng hạn, Thiên Chúa là ánh sáng (1,5), Thiên Chúa là tình yêu (4,8.16). Vì thế, định nghĩa “Thần Khí là sự thật” (5,6d) là nói về hoạt động của Thần Khí. Trong mạch văn 5,6-8, định nghĩa “Thần Khí là sự thật” khẳng định sự thật trong lời chứng của Thần Khí. Đối với người tin, chính Thần Khí đã làm chứng về sự thật là Đức Giê-su Ki-tô đến nhờ nước và máu (5,6a). Trong bối cảnh rộng hơn, định nghĩa trên gợi về sự thật mà Đức Giê-su mặc khải cho con người. “Thần Khí – sự thật” là quà tặng của Thiên Chúa như tác giả đã viết ở 4,13c: “Từ Thần Khí của Người (Thiên Chúa), Người đã ban cho chúng ta.

Định nghĩa “Thần Khí là sự thật” (1Ga 5,6d) còn gợi đến khẳng định của Đức Giê-su ở Ga 14,6. Đức Giê-su nói với Tô-ma: “Chính Thầy là con đường và sự thật và sự sống” (Ga 14,6). Ở Ga 15,26, Đức Giê-su cho biết: “Đấng Pa-rác-lê – Thần Khí sự thật” là Đấng “xuất phát từ nơi Cha, Đấng ấy sẽ làm chứng về Thầy” (Ga 15,26). Đức Giê-su là Đấng đến từ nơi Cha, và Người là sự thật (Ga 14,6). Cũng vậy, ở 1Ga 5,6d, Thần Khí đồng hoá với sự thật. (Xem ĐẤNG PA-RÁC-LÊ – Thần Khí sự thật, tr. 100-139 và bài viết: “Thuộc về sự thật, ở trong sự thật, làm sự thật (1Ga).” Thần Khí là sự thật, vì Người làm chứng rằng Đức Giê-su Ki-tô “là Đấng đã đến nhờ nước và máu” (1Ga 5,6a).

(3) Ba nhân chứng: Thần Khí, nước và máu (5,7-8). Sau khi nói về lời chứng của Thần Khí (1Ga 5,6), tác giả viết về ba nhân chứng ở 5,7-8: “7 Có ba chứng nhân: 8 Thần Khí, nước và máu, cả ba làm chứng một điều.” Các yếu tố “nước” và “máu” đã xuất hiện ở 5,6a.b: Đức Giê-su Ki-tô đến nhờ nước và máu (5,6a). Kiểu nói “nước và máu” ở đây gợi về những gì quân lính đã làm dưới chân thập giá trong Tin Mừng Gio-an. Người thuật chuyện kể ở Ga 19,34: “Một trong những người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn của Người (Đức Giê-su), và ngay tức thì, máu và nước chảy ra.” Tuy nhiên, có hai chi tiết khác biệt: (a) ở 1Ga 5,6, thứ tự các từ là “nước và máu” chứ không phải ngược lại “máu và nước” như ở Ga 19,34; (b) 1Ga 5,6 nói về Đức Giê-su Ki-tô “đến nhờ nước và máu”, chứ không phải “máu và nước chảy ra” từ cạnh sườn của Người (Ga 19,34). Hơn nữa, ở 1Ga 5,6b tác giả lặp lại và nhấn mạnh: “Không chỉ trong nước, nhưng trong nước và trong máu”. Nên có thể hiểu yếu tố “nước” gợi đến biến cố Đức Giê-su chịu phép rửa khi Người mở đầu sứ vụ. Còn “máu” gợi đến cái chết của Người trên thập giá. Kiểu nói “đến nhờ nước và máu” bao hàm toàn bộ cuộc đời trần thế của Đức Giê-su bao gồm mầu nhiệm Nhập Thể, sứ vụ và biến cố Thương Khó – Phục Sinh.

Vậy ba chứng nhân ở 1Ga 5,7-8, gợi đến những biến cố cụ thể. Lời chứng của Thần Khí (1Ga 5,6) vừa nối kết với lời chứng của Gio-an Tẩy Giả ở Ga 1,32: “Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời ngự xuống và ở lại trên Người (Đức Giê-su)”, nghĩa là Thần Khí ở với Đức Giê-su trong suốt sứ vụ của Người; vừa nối kết với lời chứng của môn đệ Đức Giê-su yêu mến ở Ga 19,35: “Người đã xem thấy, đã làm chứng, và lời chứng của người ấy là xác thực; và người ấy biết rằng mình nói sự thật để cả anh em nữa, anh em tin.” Lời này (Ga 19,35) tiếp ngay sau sự kiện máu và nước chảy ra từ cạnh sườn Đức Giê-su ở Ga 19,34.

Trong câu “Thần Khí là Chứng Nhân” (5,6c), động từ “martureô” (làm chứng), chia ở lối động tính từ hiện tại “marturoun”. Lời chứng của Thần Khí hiện tại hoá những biến cố trong quá khứ và lời chứng này liên quan đến lòng tin của cộng đoàn (5,5.10). Lời chứng của Thần Khí xác nhận lòng tin chính thống và đúng sự thật. Ba lời chứng “Thần Khí, nước và máu” cùng làm chứng về một điều (5,8). Điều đó là căn tính của Đức Giê-su Ki-tô: “Đấng đã đến nhờ nước và máu” (5,6a).

Tóm lại ba nhân chứng: Thần Khí, nước và máu (1Ga 5,7-8) cho phép nối kết thư 1Ga với Tin Mừng Gio-an qua hai biến cố kèm theo hai lời chứng: (a) Đức Giê-su chịu phép rửa trong nước kèm theo lời chứng của Gio-an Tẩy Giả (Ga 1,32); (b) biến cố Đức Giê-su chết trên thập giá (Ga 19,34) kèm theo lời chứng của môn đệ Đức Giê-su yêu mến (Ga 19,35). Hai biến cố trên là trung tâm vấn đề liên quan đến nhân tính và thiên tính của Đức Giê-su. Trong mạch văn có thể hiểu là tác giả tố cáo nhóm đối lập không nhìn nhận cái chết của Đức Giê-su đem lại ơn cứu độ cho con người.

II. Dầu-xức(khrisma)   

Từ Hy-lạp khrisma”, dịch tiếng Anh: “anointing”, tiếng Pháp: “onction”, tạm dịch tiếng Việt: “Dầu-xức”. Từ này viết hoa vì tương đương với Thánh Thần. Hai từ được nối bằng dấu gạch ngang (-) để diễn tả thứ dầu mà người tin lãnh nhận. Nếu dịch là “Dầu” thì chưa đủ nghĩa, bởi vì bản văn nói về thứ dầu thánh xức trên người tin, biểu tượng cho việc lãnh nhận Thánh Thần.

Vai trò của “khrisma” (Dầu-xức) trong thư 1Ga giống với vai trò của “Đấng Pa-rác-lê – Thần Khí sự thật” trong Tin Mừng Gio-an, nên thuộc đề tài “thần khí” trong thư 1Ga. Trong toàn bộ Tân Ước, từ “khrisma” (Dầu-xức) chỉ xuất hiện 3 lần ở 1Ga 2,20.27a.27b và thuộc đoạn văn 1Ga 2,18-27. Trong đó tác giả nói với cộng đoàn về những sai lạc của nhóm phản Ki-tô. Đề tài này được trình bày qua ba điểm: (1) Dầu-xứcở 1Ga 2,19-22; (2) “Dầu-xứcở 1Ga 2,25-27; (3) Ý nghĩa cách dùng từ Dầu-xức”.

    1. Dầu-xứcở 1Ga 2,19-22

Trong bối cảnh trình bày sự khác biệt giữa nhóm phản Ki-tô và “chúng ta” (tác giả thư 1Ga và cộng đoàn), từ “khrisma” (Dầu-xức) xuất hiện lần đầu tiên trong thư 1Ga khi tác giả phân biệt cộng đoàn với nhóm phản Ki-tô ở 2,19-22: “19 Chúng (những kẻ phản Ki-tô) xuất thân từ nơi chúng ta, nhưng chúng không thuộc về chúng ta; vì nếu chúng thuộc về chúng ta, chúng đã ở lại với chúng ta. Nhưng để tỏ hiện ra là không phải tất cả thuộc về chúng ta. 20 Phần anh em, anh em có Dầu-xức từ Đấng Thánh và anh em biết tất cả. 21 Tôi đã không viết cho anh em là anh em không biết sự thật, nhưng vì anh em biết sự thật và mọi sự dối trá thì không thuộc về sự thật. 22 Ai là kẻ dối trá, nếu không phải là người chối bỏ và cho rằng Đức Giê-su không phải là Đấng Ki-tô? Người ấy là tên phản Ki-tô, là kẻ chối bỏ Cha và Con.”

Những thành viên trong cộng đoàn của tác giả có “Dầu-xức từ Đấng Thánh” (1Ga 2,20a). Tước hiệu “Đấng Thánh” ở đây chỉ về Thiên Chúa và cũng chỉ về Đức Giê-su. Trong Tin Mừng Gio-an, Si-môn Phê-rô tuyên xưng Đức Giê-su là “Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6,69). Dầu-xức mà người tin đã lãnh nhận từ Đức Giê-su có tương quan với Tin Mừng Gio-an. Đức Giê-su, Đấng Thánh của Thiên Chúa (Ga 6,69), đã lãnh nhận Thần Khí đầu sứ vụ của Người (Ga 1,33); cuối sứ vụ, Đức Giê-su lại ban Thần Khí cho các môn đệ ở Ga 20,22: “Nói xong điều đó, Người (Đức Giê-su) thổi hơi và nói với các ông: ‘Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần.’”

    2. Dầu-xứcở 1Ga 2,25-27

Từ khrisma” (Dầu-xức) xuất hiện hai lần khác trong đoạn văn 1Ga 2,25-27. Tác giả triển khai vai trò của Dầu-xức ở 1Ga 2,25-27: “25 Và đây là lời hứa mà chính Người đã hứa cho chúng ta: Sự sống đời đời. 26 Tôi viết cho anh em những điều này về những kẻ làm cho anh em lạc đường. 27 Phần anh em, Dầu-xức mà anh em đã nhận từ Người ở lại trong anh em, và anh em không cần có ai để dạy anh em, vì Dầu-xức của Người dạy anh em về mọi sự – dầu ấy là sự thật, không là sự dối trá –. Như dầu ấy đã dạy anh em, anh em hãy ở lại trong Người.”

Ở 2,27, Dầu-xức thực hiện hai điều quan trọng. Đó là ở lại nơi người tin: “Dầu-xức mà anh em đã nhận từ Người ở lại trong anh em” (2,27a) và dạy mọi sự cho người tin: “Dầu-xức của Người dạy anh em về mọi sự” (2,27b). Hơn nữa Dầu-xức gắn kết với sự thật: “Dầu ấy là sự thật, không là sự dối trá” (2,27c). Vậy Dầu-xức là chủ từ của động từ “ở lại” (menô) và “dạy” (didaskô). Vai trò trên đây của Dầu-xức được thực hiện bởi “Đấng Pa-rác-lê – Thần Khí sự thật” trong Tin Mừng Gio-an (Ga 14–16). Thật vậy, Đức Giê-su mặc khải cho các môn đệ biết sứ vụ của “Đấng Pa-rác-lê – Thần Khí sự thật” là “Người ở với anh em mãi mãi” (Ga 14,16); “Người ở lại giữa anh em và Người sẽ ở trong anh em” (Ga 14,17); “Người sẽ dạy anh em tất cả và sẽ làm cho anh em nhớ lại tất cả những gì [chính] Thầy đã nói với anh em” (Ga 14,26). Nếu như “Dầu-xức là sự thật (chân thật)” (1Ga 2,27c) thì Đấng Pa-rác-lê trong Tin Mừng là “Thần Khí sự thật” (Ga 15,26). Những chi tiết song song trên đây cho thấy Dầu-xức trong thư 1Ga thực hiện những nhiệm vụ giống như Đấng Pa-rác-lê – Thần Khí sự thật trong Tin Mừng Gio-an.

    3. Ý nghĩa cách dùng từ Dầu-xức

Câu hỏi đặt ra là tại sao tác giả lại dùng từ “khrisma” (Dầu-xức) để nói về những hoạt động của Thần Khí? Có thể trả lời câu hỏi liên quan đến ý nghĩa từ “khrisma” qua hai điểm: (1) tránh dùng từ “pneuma” (thần khí) vì từ này có nhiều nghĩa; (2) từ “khrisma” cùng gốc với từ “christos”: chris- diễn tả tranh luận Ki-tô học liên quan đến vai trò và sứ vụ của Đức Giê-su.

(1) Trong bối cảnh thư 1Ga, dường như nhóm đối lập cũng cho rằng họ có “thần khí (pneuma) sự thật”. Tự nó, danh từ “thần khí” (pneuma) có nhiều nghĩa (Thần Khí Thiên Chúa, thần khí con người, tâm linh…). Vì thế, tác giả thư 1Ga mời gọi cộng đoàn “thẩm định các thần khí” (1Ga 4,1) để phân biệt “thần khí sự thật” và “thần khí sai lầm” (1Ga 4,6). Có thể tác giả thư 1Ga dùng từ “khrisma” (dầu-xức) để tránh dị nghĩa như trên.

(2) Về ý nghĩa từ Dầu-xức” (khrisma), M. Morgen cho rằng: “Xét theo từ ngữ, ý nghĩa của từ dầu-xức gợi đến nghi thức phụng vụ trong khung cảnh nghi lễ rửa tội để gia nhập cộng đoàn (Nauck, Tradition, 94-98).” (M. Morgen, Les épîtres de Jean, (CB.NT 19), Paris, Le Cerf, 2005, p. 104). Tuy nhiên, từ Hy-lạp “khrisma” (Dầu-xức) trong thư 1Ga không nói về nghi thức rửa tội, nhưng là công việc của Dầu-xức: “ở lại” nơi người tin và “dạy” họ mọi sự (1Ga 2,27). Trong Tin Mừng Gio-an, vai trò của Đức Giê-su cũng là “ở lại với” và “dạy” các môn đệ. Qua hình ảnh cây nho và cành nho, Đức Giê-su nói với các môn đệ ở Ga 15,5: “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em không thể làm gì được.” Diễn từ bánh sự sống ở Ga 6,25-58 là những lời giảng dạy của Đức Giê-su vì người thuật chuyện cho biết ở Ga 6,59: “Những điều này Người (Đức Giê-su) đã nói khi giảng dạy trong hội đường ở Ca-phác-na-um.” Vậy vai trò của Dầu-xức (“ở lại” và “dạy”) song song với sứ vụ của Đức Giê-su. Theo Max-Alain Chevallier, từ “khrisma” (Dầu-xức) gợi đến tranh luận Ki-tô học, bởi vì từ “khrisma” (dầu-xức) và “Khristos” (Ki-tô) cùng chung gốc từ: “khris-”. (Cf. M.-A. Chevallier, Souffle de Dieu, le Saint-Esprit dans le Nouveau Testament, p. 528).

Tóm lại, từ “khrisma” (Dầu-xức), nói về hành động xức dầu hay dầu-xức (dầu đã xức), biểu tượng việc người tin lãnh nhận Thần Khí. Đây là cách dùng riêng của 1Ga, gợi đến hoạt động của Đức Giê-su và của Đấng Pa-rác-lê là Thần Khí sự thật, và là Thánh Thần trong Tin Mừng Gio-an.

III. Đấng Pa-rác-lê (paraklêtos)

Trong thư 1Ga, chỉ xuất hiện 1 lần từ paraklêtos” (pa-rác-lê) ở 2,1, và nói về vai trò của Đức Giê-su. Còn trong Tin Mừng Gio-an, Đấng Pa-rác-lê (paraklêtos) được đồng hoá với Thần Khí sự thật (Ga 15,26) và Thánh Thần (Ga 14,26). Ở Ga 14,16, Đức Giê-su dùng kiểu nói “Đấng Pa-rác-lê khác” (Ga 14,16) để nói về “Đấng Pa-rác-lê – Thần khí sự thật” cho phép hiểu ngầm Đức Giê-su cũng là Đấng Pa-rác-lê, còn Thánh Thần là Đấng Pa-rác-lê khác. Tuy nhiên danh xưng “Đấng Pa-rác-lê khác” chỉ xuất hiện 1 lần trong Tin Mừng ở Ga 14,16. Những lần khác trong Tin Mừng, “Ðấng Pa-rác-lê” là Thần Khí sự thật, là Thánh Thần. Phần này tìm hiểu từ paraklêtos” (pa-rác-lê) ở 1Ga 2,1 qua ba điểm: (1) Dịch và chuyển âm từ “paraklêtos”; (2) Ðấng Pa-rác-lê ở Ga 14,15-16 và 1Ga 2,1; (3) “Đấng Pa-rác-lê – Giê-su Ki-tô” trong bối cảnh 1Ga. (Xem so sánh “Đấng Pa-rác-lê khác” (Ga 14,16) và “Đấng Pa-rác-lê” ở 1Ga 2,1 trong ĐẤNG PA-RÁC-LÊ – Thần Khí sự thật, tr. 67-71).

    1. Dịch và chuyển âm từ “paraklêtos

Từ paraklêtos” (pa-rác-lê) ở 1Ga 2,1 mô tả hoạt động của Đức Giê-su như là Đấng đã được tôn vinh bên Cha. Tác giả viết ở 1Ga 2,1-2: “1 Hỡi các con bé nhỏ của tôi, những điều này tôi viết cho anh em để anh em đừng phạm tội. Nhưng nếu ai phạm tội, chúng ta có một Đấng Pa-rác-lê (paraklêton) với Cha: Đức Giê-su Ki-tô, Đấng Công Chính; 2 và chính Người là của lễ đền tội vì tội lỗi của chúng ta, không chỉ tội lỗi của chúng ta mà còn tội lỗi của cả thế gian.” Bản dịch BJ (La Bible de Jérusalem) dịch “paraklêton” (danh từ, giống đực, đối cách) bằng từ “avocat” (luật sư, người bênh vực). Bản TOB (Traduction Œcuménique de la Bible) dịch là “défenseur” (người bảo vệ, bênh vực, bào chữa). Tác giả M. Morgen giữ nguyên ngữ tiếng Hy-lạp và chuyển âm sang tiếng Pháp: “paraclet”: “Si quelqu’un vient à pécher, nous avons un paraclet auprès du Père, Jésus Christ (le) Juste” (1Jn 2,1b). (M. Morgen, Les épîtres de Jean, (CB.NT 19), Paris, Le Cerf, 2005, p. 60). Chúng tôi giữ nguyên ngữ từ paraklêtos” và chuyển âm sang tiếng Việt: “Đấng Pa-rác-lê”. Trong văn chương Hy-lạp, “paraklêtos” có nghĩa là người bảo vệ, bênh vực, bào chữa trong một vụ kiện, nhưng nghĩa đặc biệt của từ này trong thần học Gio-an (Tin Mừng và thư 1Ga) làm cho từ paraklêtos” không thể dịch được. Xem giải thích lựa chọn giữ nguyên ngữ trong Bản văn Gio-an, TIN MỪNG và BA THƯ, tr. 26-27).

    2. Ðấng Pa-rác-lê ở Ga 14,15-16 và 1Ga 2,1

Vai trò “paraklêtos” của Đức Giê-su và “Ðấng Pa-rác-lê, Thánh Thần” được trình bày qua hai giai đoạn và hai bối cảnh khác nhau: (1) trong Tin Mừng Gio-an và (2) trong thư thứ nhất Gio-an.

(1) Trong Tin Mừng Gio-an, mạch văn gợi ý Đức Giê-su như là Ðấng Pa-rác-lê khi Người nói với các môn đệ ở Ga 14,15-16: “15 Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy; 16 và chính Thầy sẽ can thiệp với Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Pa-rác-lê khác (allon paraklêton) để Người ở với anh em mãi mãi.” Đấng Pa-rác-lê khác trong câu này chính là “Đấng Pa-rác-lê – Thần Khí sự thật” (Ga 14,17; 15,26). Vì thế, danh xưng “một Đấng Pa-rác-lê khác” hàm ẩn Đức Giê-su cũng là Đấng Pa-rác-lê. Trong bối cảnh Tin Mừng Gio-an, “Đấng Pa-rác-lê – Giê-su”, được trình bày song song với “Đấng Pa-rác-lê – Thần Khí”, vì có nhiều điểm giống nhau hiển nhiên giữa sứ vụ của Đức Giê-su và sứ vụ của Đấng Pa-rác-lê – Thần Khí. Xem mục “Đấng Pa-rác-lê và Đức Giê-su” trong ĐẤNG PA-RÁC-LÊ – Thần Khí sự thật, tr. 154-204.

(2) Người ta thường nối kết lời Đức Giê-su nói ở Ga 14,15-16 với vai trò của “Đấng Pa-rác-lê – Giê-su Ki-tô” ở 1Ga 2,1. Tuy nhiên, vai trò “Đấng Pa-rác-lê” ở 1Ga 2,1 đặt trong bối cảnh khác với Tin Mừng Gio-an qua ba điểm: (a) Trước hết, danh hiệu “Pa-rác-lê – Giê-su” là mặc nhiên (không minh nhiên, không nói rõ) trong Tin Mừng, trong khi thư 1Ga đồng hoá cách minh nhiên “Đức Giê-su Ki-tô” với “Đấng Pa-rác-lê.” (b) Kế đến, “Đấng Pa-rác-lê – Giê-su” trong Tin Mừng liên quan đến sứ vụ trần thế của Người, trong khi thư 1Ga nói đến vai trò Pa-rác-lê của Đức Giê-su Ki-tô bên Chúa Cha, sau khi Người hoàn thành sứ vụ trần thế và được tôn vinh bên Cha. (c) Cuối cùng, sứ vụ của “Đấng Pa-rác-lê – Giê-su” trong Tin Mừng liên quan đến việc “ở lại với”, “dạy” các môn đệ và “làm chứng” giống như “Đấng Pa-rác-lê – Thần Khí sự thật”, trong khi vai trò của “Đấng Pa-rác-lê – Giê-su Ki-tô” trong 1Ga liên quan đến việc tha tội cho người tin, tha tội cho các thành viên trong cộng đoàn. Đề tài này không được nói đến trong Tin Mừng Gio-an.

    3. “Đấng Pa-rác-lê – Giê-su Ki-tô” trong bối cảnh 1Ga

Bối cảnh và đề tài khác nhau như trên, cho thấy có ít liên hệ giữa “Đấng Pa-rác-lê – Giê-su” trong Ga 14,16 và “Đấng Pa-rác-lê – Giê-su Ki-tô” ở 1Ga 2,1. Tốt hơn nên hiểu vai trò của Đức Giê-su Ki-tô trong bối cảnh thư 1Ga. Hoạt động của Đấng Pa-rác-lê ở 1Ga 2,1 liên quan đến việc tha tội. Đề tài “làm của lễ đền tội” (1Ga 2,2) của Đức Giê-su được nhấn mạnh trong bản văn, vì tác giả viết ở 1Ga 2,2: “Chính Người [Đức Giê-su Ki-tô] là của lễ đền tội vì tội lỗi của chúng ta, không chỉ tội lỗi của chúng ta mà còn tội lỗi của cả thế gian.” Đề tài này còn định nghĩa tình yêu của Thiên Chúa ở 4,10: “Tình yêu ở trong điều này: Không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu mến chúng ta và sai Con của Người làm của lễ đền tội vì tội lỗi chúng ta.” Như thế, vai trò của Đấng Pa-rác-lê – Giê-su Ki-tô (1Ga 2,1) là tha thứ tội lỗi cho người tin, làm cho họ xứng đáng bước vào tương quan với Thiên Chúa và hiệp thông với Người. Nhờ “Đấng Pa-rác-lê – Giê-su Ki-tô” mà cộng đoàn có thể “ở lại trong Con và trong Cha” (2,24). Sự hiệp thông này đối lập với lập trường của nhóm phản Ki-tô là “kẻ chối bỏ Cha và Con” (2,22).

Kết luận

Bài viết tìm hiểu đề tài “thần khí” trong thư 1Ga qua phân tích các từ: “thần khí” (pneuma), “khrisma” (dầu-xức) và “paraklêtos” (pa-rác-lê) được tóm kết qua bốn điểm:

(1) Trong hoàn cảnh khủng khoảng do cách hiểu khác nhau về vai trò và sứ vụ của Đức Giê-su dẫn đến việc thẩm định các thần khí là cần thiết. Tác giả thư 1Ga mời gọi cộng đoàn “tuyên xưng Đức Giê-su Ki-tô là Đấng đã đến trong thân xác” để có thần khí bởi Thiên Chúa (4,2) và loại bỏ “thần khí sai lầm” của phản Ki-tô, vì họ đã “phân chia Đức Giê-su” (4,3).

(2) Thần khí là thực tại vô hình hoạt động trong con người. Chỉ nhờ những biểu hiện bên ngoài (tuyên xưng niềm tin, giữ điều răn yêu thương, v.v…) mới cho phép đón nhận quà tặng Thần Khí (4,13) và tin vào lời chứng của Thần Khí: Đức Giê-su Ki-tô là Con Thiên Chúa và là Đấng đã đến nhờ nước và máu (5,5-6).

(3) Từ “khrisma” (Dầu-xức) ở 1Ga 2,20.27 có nhiệm vụ giống “Đấng Pa-rác-lê – Thần Khí” trong Tin Mừng Gio-an (Ga 14–16). Cộng đoàn đón nhận Dầu-xức từ Đức Giê-su. Dầu-xức ở lại nơi người tin và dạy người tin mọi sự. Việc dùng từ “khrisma” (Dầu-xức) để nói về hoạt động của Thần Khí có thể để tránh đa nghĩa của từ “thần khí”.

(4) Trong Tin Mừng Gio-an, từ paraklêtos” (Ðấng Pa-rác-lê) nói về Thần Khí cách minh nhiên và nói về Đức Giê-su cách mặc nhiên. Trong khi, thư 1Ga không dùng từ “paraklêtos” để nói về Thần Khí. Từ “paraklêtos” chỉ xuất hiện 1 lần ở 1Ga 2,1 để nói về vai trò của Đức Giê-su Ki-tô bên cạnh Chúa Cha liên quan đến việc tha tội cho người tin. Như thế, hoạt động của Đấng “Pa-rác-lê – Giê-su Ki-tô” ở 1Ga 2,1 đặt trong bối cảnh khác với  Đấng “Pa-rác-lê – Giê-su” trong Tin Mừng Gio-an.

Tóm lại, cách dùng các từ “thần khí”, “dầu-xức” và “Pa-rác-lê” trong thư 1Ga là một trong những đóng góp quý báu của thư thứ nhất nói riêng và của thần học Gio-an nói chung (Tin Mừng và ba thư). Giáo huấn thư 1Ga giúp độc giả thẩm định các thần khí (4,1-6); đón nhận quà tặng Thần Khí (3,24 ; 4,13); xác tín vào lời chứng của Thần Khí (5,5-7); thừa hưởng những hoạt động của Dầu-xức (2,20.27); và nhận biết vai trò của Đấng Pa-rác-lê – Giê-su Ki-tô (2,1). Nhờ đó, độc giả có khả năng tuyên xưng lòng tin đích thực vào Đức Giê-su Ki-tô là Đấng đã đến nhờ nước và máu; hiệp thông với Cha và Con; hiệp thông với tác giả và với nhau; đón nhận tình yêu của Thiên Chúa và sống điều răn yêu thương./.  


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét